TẦM VÓC TRẦN QUỐC HƯƠNG

Bài viết rất dài, khoảng 4000 chữ cho soha.vn, xin tóm tắt một số nội dung chính (cũng hơi dài) :

1 – Ông Trần Quốc Hương (Mười Hương) là nhà cách mạng chuyên nghiệp, từng là cộng sự thân cận với cụ Hồ và các nhà lãnh đạo “khai quốc”. Trong chống Pháp, ông làm Phó Giám đốc Nha Liên lạc (cơ quan tình báo trực thuộc Thủ tướng phủ). Sau Hiệp định Geneve 1954, được cử vào Nam tham gia thành lập cơ quan tình báo của Trung ương Cục, trực tiếp tổ chức, huấn luận nghiệp vụ cho hệ thống tình báo miền, và là người chỉ huy khối điệp báo chủ yếu của miền và 4 lưới tình báo chiến lược của trung ương. Do từ miền bắc vào không ai biết mặt nên ông hoạt động hợp pháp ở Sài Gòn từ năm 1955 đến năm 1958 để trực tiếp tổ chức, chỉ đạo hoạt động tình báo. Những nhà tình báo lừng danh sau này chúng ta biết đều do ông phụ trách trong thời gian này. Riêng ông Ẩn hoạt động tình báo từ trước do ông Phạm Ngọc Thạch tổ chức, ông Phạm Ngọc Thảo thì do ông Lê Duẩn giao nhiệm vụ, lúc này được bàn giao lại cho ông để thống nhất đường hướng, phương thức hoạt động và các nguyên tắc liên lạc.



2 – Từ cuối năm 1957, do một số đường dây ở Huế bị vỡ, một số người bị bắt đã khai báo dẫn đến cả hệ thống bị vỡ dắt dây. Ông Mười Hương bị bắt ngày 13-6-1958 do một điệp viên trong mạng lưới chỉ điểm. Trong nhà tù của Ngô Đình Cẩn, ông giữ vững khí tiết, bảo vệ được tất cả những bí mật mà ông biết về cơ quan tình báo trung ương, cơ quan tình báo miền cũng như mạng lưới điệp viên do ông phụ trách. Tuy nhiên, do sự khai báo của người khác, nên các mạng lưới do phụ trách cũng lần lượt đổ vỡ. Chỉ trong vòng 1 năm, tổng lực lượng điệp báo bị phá khoảng 100, nếu kể cả cán bộ và giao thông viên thì con số lên tới 140, đại bộ phận do đặc vụ miền trung của Ngô Đình Cẩn bắt hoặc chuyển mục tiêu cho an ninh quân đội bắt những điệp viên của ta nằm trong quân đội. Riêng Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn… do hoạt động đơn tuyến nên vẫn được bảo toàn trong giai đoạn khủng hoảng trầm trọng của cả hệ thống.

Hệ thống nhà tù và trại thẩm vấn Việt Nam cộng hòa dưới chế độ ông Ngô Đình Diệm rất tàn khốc, hồi nhỏ tôi cũng rợn tóc gáy khi có nghe những câu chuyện do các cô chú trong làng từng bị bắt kể lại. Nhưng đó chỉ là một phần của sự thật. Còn có những sự thật khác nữa, do các nhà tình báo cung cấp “từ trong lòng địch”, nhưng vì những thông tin từ họ không được đưa lên truyền thông, bởi vậy người dân chỉ biết thông tin qua báo chí, cả báo chí Sài Gòn trước năm 1975 và báo chí cách mạng sau năm 1975, qua những bài học lịch sử trong nhà trường và qua những câu chuyện kể như tôi đã từng nghe.

Nếu như đối phương chỉ là những kẻ bất tài và gian ác như truyền thông chính thống và sách dạy lịch sử mô tả, thì chiến thắng của cách mạng có gì đáng lấy làm vẻ vang ?

Một số sách vở báo chí cho rằng, ông bị các cai ngục trong nhà tù của Ngô Đình Cẩn tra tấn vô cùng man rợ. Trong lần gặp ông để viết về Phạm Xuân Ẩn và Phạm Ngọc Thảo, tôi hỏi ông có chuyện đó không, ông trả lời là ông có bị giam ở Huế nhưng bị tra tấn thì không.

Ông Mười Hương kể, trong thời gian ông bị giam, Ngô Đình Nhu có đến gặp ông. Cuộc gặp này có mặt Ngô Đình Cẩn. Theo ông Mười Hương thì vừa gặp ông, Ngô Đình Nhu nói ngay : “Cộng sản các anh ác lắm. Họ Ngô của tôi suýt nữa thì tuyệt tự…”. Ông Mười Hương nói : “Nhưng cụ Hồ đã không làm khó cho ông Ngô Đình Diệm…”. Ngô Đình Cẩn nói chen vào : “Đúng rồi, cấp trên của các anh thì rất tốt, làm bậy chỉ có cấp dưới thôi”. Ngô Đình Nhu cũng tán thành với ý kiến của Ngô Đình Cẩn. Mục đích cuộc gặp là nhằm đấu trí để biết người biết ta thôi, không hề có chuyện thuyết phục “quy hàng”, vì cả ông Nhu và ông Cẩn đều biết rõ ông Mười Hương là ai, tư cách như thế nào. Nhưng vì cuộc gặp không mong muốn đó mà sau này ông Mười Hương đã bị không ít đồng chí của mình làm khó dễ. Có người còn bảo "nó gặp ông để làm gì, để tuyên truyền cách mạng cho ông à ?". Nhờ các đồng chí cấp trên cao nhất của ông hiểu được sự quang minh chính đại của ông nên ông không bị làm sao, mới có thể lên làm tới chức Bí thư Trung ương Đảng.

Tướng Phạm Xuân Ẩn từng nói với tôi, trong mấy anh em ông Diệm thì ông Cẩn là người giỏi nhất. Việc phá vỡ mạng lưới tình báo của ta trong những năm 1957-1958 cũng chứng tỏ Ngô Đình Cẩn tài giỏi như thế nào. Trong nhà tù của Ngô Đình Cẩn tất nhiên là có tra tấn, nhưng không đến mức như sách báo mô tả. Ông Ẩn nói phần lớn cán bộ cách mạng bị bắt đều được Ngô Đình Cẩn thả ra. Đó là thủ đoạn đánh phá cách mạng hữu hiệu vô song, bởi vì một cán bộ bị bắt được thả thì không những khiến cho tổ chức các mạng không tin vào người cán bộ đó mà cả đường dây của người cán bộ cũng bị chính cách mạng vô hiệu hoá. Thực tế cho thấy, những cán bộ bị bắt mà vô cớ được thả ra không thể chứng minh với tổ chức vì sao mình được thả và phần lớn không được tin dùng nếu không có người bảo lãnh, nhiều người suốt đời không được phục hồi đảng tịch. Nhưng đối với ông Mười Hương thì anh em ông Diệm không thể thả được, thả ông là thả hổ về rừng.

Phải đến sau khi chế độ Ngô Đình Diệm sụp đổ vào cuối năm 1963, lợi dụng tình hình rối ren trên chính trường miền nam, nội bộ chế độ bị phân hoá với những mâu thuẫn sâu sắc, một loạt nhân sự trong cơ quan mật vụ bị thay thế, Cục Tình báo trung ương cùng với cơ quan tình báo miền mới tìm cách vận động, lo lót tiền bạc để ông Mười Hương và 16 cán bộ điệp báo khác được chính quyền Sài Gòn trả tự do. Đến ngày 18-5-1964, ông được thả. Ông vẫn ở lại Sài Gòn để gặp một số đầu mối quan trọng, dặn dò và thống nhất các quy ước móc nối với tổ chức, đến tháng 7 năm đó ông mới ra vùng giải phóng. Khi chính quyền Sài Gòn phát hiện thả ông là thả nhầm, liền tổ chức truy bắt lại thì ông đã ra được An toàn khu rồi.

3 - Trong những nhà tình báo do ông Mười Hương tổ chức hoạt động từ đầu, có lẽ ông thương nhất là Phạm Ngọc Thảo. Ông Thảo lúc đó đã là cán bộ cao cấp của kháng chiến, từng là Trưởng phòng Mật vụ Nam bộ, tất nhiên không phải là một “học trò” do ông Mười Hương dẫn dắt. Ông là người “chỉ huy” ông Thảo nhưng chỉ truyền đạt đường hướng, thống nhất quan điểm, phương thức, nguyên tắc hoạt động và giữ liên lạc khi cần thiết, còn mọi hoạt động đều do ông Thảo tự định đoạt. Giữa họ đã nhanh chóng tâm đầu ý hợp.

Hai ông đều thống nhất nhận định ông Ngô Đình Diệm là một người yêu nước theo cách của ông ta, ông ta muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản. Ông Mười Hương nói với tôi, nếu không thừa nhận anh em Ngô Đình Diệm là những người yêu nước theo cách của họ, nếu không thừa nhận họ là những người có tinh thần dân tộc, muốn xây dựng một chế độ quốc gia không cộng sản, thì Phạm Ngọc Thảo khó mà dám “ngửa bài”.

Sau khi thống nhất quan điểm với ông Mười Hương, Phạm Ngọc Thảo không giấu cái lý lịch kháng chiến ai cũng biết của ông, nhưng ông không “hồi chánh” để “trở về với chính nghĩa quốc gia” như một số người, vì làm như vậy là biến thành một “thây ma”, là tự vô hiệu hóa vai trò của mình. Và Phạm Ngọc Thảo đã “tàng hình” bằng việc công khai tự hào về cái lý lịch kháng chiến của mình.

Thực tế cho thấy nhận định của ông Mười Hương và ông Phạm Ngọc Thảo là đúng. Bởi vậy, khi làm Tỉnh trưởng Bến Tre, ông Thảo đã thả 2000 tù chính trị và tuyên bố đây là chính sách thân dân của Ngô Tổng thống. Cơ quan an ninh của ông Diệm báo lên ông rằng Phạm Ngọc Thảo chính là Việt cộng mới có hành động như vậy, nhưng ông Diệm không những không nghe mà còn khen ngợi ông Thảo, bảo các tỉnh nên học tập và làm theo ông Thảo. Sự kiện này do cơ quan tình báo miền ghi lại. Nếu như không tin ông Diệm tán thành hành động của mình thì Phạm Ngọc Thảo đã không dám làm như vậy, và nếu như ông Thảo nhận định sai thì ông đã chết từ lúc đó rồi.

Ông Mười Hương và ông Phạm Ngọc Thảo đã đánh giá đúng tầm cỡ của đối thủ, nếu đánh giá thấp thì các nhà tình báo của ta không thể chui sâu trèo cao vào cơ quan đầu não của chính quyền Sài Gòn được.

4 - Là một nhà cách mạng chuyên nghiệp, ông Mười Hương hiểu hơn ai hết tầm quan trọng của việc tranh thủ sự ủng hộ của các giáo sĩ và đồng bào theo đạo Công giáo trong sự nghiệp đoàn kết chống ngoại xâm. Điều này ông đã học từ Chủ tịch Hồ Chí Minh khi trực tiếp chứng kiến hành động của cụ Hồ đối với đạo Công giáo khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

Ông Mười Hương kể, vào tháng 2-1946, cụ Hồ đã đích thân đến Tòa giám mục mời Giám mục Lê HữuTừ làm “cố vấn tối cao Chính phủ”. Đức cha Từ nhận lời và trở thành một trong hai người giữ chức vụ này trong Chính phủ lâm thời, người kia là cựu hoàng Bảo Đại. Khi bước chân vào cổng Tòa Giám mục, cụ Hồ đã nhìn thấy Bí thư huyện ủy Kim Sơn bị tự vệ của giáo phận bắt mang ra đánh chết ngay trước mặt cụ nhằm “thị uy” cụ Hồ. Cụ Hồ chỉ khựng lại một lát rồi đi tiếp vào Tòa giám mục. Ông Mười Hương nói, khi về có nhiều người bức xúc, nhưng cụ Hồ nói, các chú tưởng tôi không đau sao, tôi đau lắm chứ, nhưng không thể không mời Lê Hữu Từ, vì dưới ông ta là hàng triệu giáo dân, không mời ông ta thì rất khó thuyết phục đồng bào theo đạo Công giáo tham gia cứu quốc và kiến quốc.

Khi hoạt động tình báo ở miền Nam, ông Mười Hương đã tận dụng triệt để vai trò của của các giáo sĩ đạo Công giáo để che chở, bảo vệ các nhà tình báo của mình, điển hình là nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo và Vũ Ngọc Nhạ. Những nhà tình báo này không lợi dụng đạo Công giáo để phá đạo hay gây hại cho đạo, họ thuyết phục các giáo sĩ bằng sự thành tâm đối với đạo và bằng cuộc đời chính trực nhân nghĩa của mình. Không phải ngẫu nhiên mà sau khi Phạm Ngọc Thảo bị chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sát hại, các vị linh mục, giám mục vẫn bảo vệ đến cùng tư cách chính trực của ông. Theo tôi được biết thì ngay cả khi biết Phạm Ngọc Thảo là người của phía bên kia, các vị giáo sĩ yêu mến ông vẫn không hề thất vọng về ông.

HOÀNG HẢI VÂN






Đăng nhận xét

0 Nhận xét